24 thg 12, 2021

NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG: CHÍNH SÁCH THẬT KHÓ, PHẢI ĐÂU CHUYỆN ĐÙA

Với biến thể mới của Covid-19 và nguy cơ lạm phát, một số Ngân hàng Trung ương (NHTW) lớn trên thế giới mới đây đã có những phản ứng quan trọng không đồng điệu với nhau. Trong khi Ngân hàng Trung ương Mỹ (Fed) dự tính tăng lãi suất 3 đợt trong năm 2022, Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) tăng lập tức từ 0,1% lên 0,25% thì Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) vẫn kiên định lập trường tiếp tục hỗ trợ nền kinh tế. Điều này cho thấy các nền kinh tế lớn có những nhận định và ưu tiên khác nhau dựa trên trạng thái thực tế của chính mình, không bị chi phối nhiều bởi yếu tố bên ngoài.


Mỗi nơi một chính sách

Từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2018-2019, NHTW của nhiều nền kinh tế lớn đã dùng chính sách lãi suất thấp, cùng với các gói hỗ trợ định lượng thông qua chương trình mua tài sản để hỗ trợ nền kinh tế. Đột nhiên, đại dịch Covid-19 bùng phát vào đầu năm 2020 khiến cho kinh tế thế giới chao đảo, và các cơ quan hoạch định chính sách tiền tệ này phải tiếp tục hà hơi tiếp sức cho các chính phủ.

Đến khi vắc-xin được triển khai trên diện rộng, số ca tử vong và nguy kịch do Covid-19 giảm thì nhiều nền kinh tế đã chuẩn bị cho kịch bản hồi phục. Lúc này mối đe dọa lạm phát càng hiện rõ và đặt các NHTW vào tình thế khó xử: ưu tiên việc làm hay lạm phát ? các chính sách mạnh ngay lập tức (hawkish) hay nhẹ nhàng và chậm rãi (dovish).

Và thông tin từ Fed, BoE, và ECB tuần trước cho thấy cách xử lý của các NHTW này là không đồng điệu với nhau. Với BoE, dường như ưu tiên hơn cho vấn đề lạm phát khi đã điều chỉnh lãi suất từ 0,1% lên 0,25%. Nếu nhìn con số tuyệt đối thì không đáng là bao nhưng xét về tỷ lệ tăng thì đáng kể vô cùng. Việc tăng lãi suất của BoE có thể không ảnh hưởng nhiều đến đầu vào là các khoản tiết kiệm, nhưng sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến đầu ra là các khoản tín dụng, các khoản cho vay. Thêm vào đó, một gia tăng đáng kể của lãi suất sẽ tác động rất lớn đến thị trường trái phiếu, đặc biệt là những trái phiếu có kỳ hạn dài vì độ nhạy cảm của nó với lãi suất.

Trong khi đó, Fed cũng có phần “diều hâu” hơn so với một số dự đoán trước cuộc họp ngày 14-15 tháng 12 vừa qua khi tạm thời giữ nguyên lãi suất nhưng dự kiến sẽ tăng 3 lần trong năm 2022 với khả năng cao sẽ tăng lần đầu tiên và tháng Ba năm sau. Ngoài ra, Fed cũng đã quyết định giảm gấp đôi lượng tài sản mua vào, là 30 tỷ USD thay vì 15 tỷ USD và sẽ kết thúc sớm hơn dự kiến chương trình này vào tháng 3-2022. Phần lớn thị trường đánh giá quyết định của Fed và chừng mực và hơp lý vì ngay sau họp báo, thị trường đã cho thấy tín hiệu tích cực, nhiều chỉ số chứng khoán tăng điểm. Đối với Fed, vấn đề việc làm là ưu tiên hơn và chỉ can thiệp khi lạm phát đã trở thành mối đe dọa thực sự.

Nguồn: Tóm tắt dự báo kinh tế của Fed, 12/2021

Chỉ có riêng ECB là vẫn giữ nguyên quan điểm của mình về việc tiếp tục hỗ trợ nền kinh tế, chưa tính đến việc tăng lãi suất và tiếp tục chương trình mua tài sản. Theo đại diện của ECB là bà Lagarde, ECB vẫn cho rằng nền kinh tế chưa sẵn sàng để hồi phục, và các hỗ trợ vẫn phải tiếp tục và linh động. Và điều này có vẻ đúng với EU khi mới đây và hiện nay, biến thể mới Omicron đang đe dọa những hy vọng phục hồi nhanh của lục địa này. Tuy vậy, ngay trong nội bộ của ECB đã có một số quan điểm bất đồng khi cho rằng lạm phát là một vấn đề mà ECB cần phải chú ý ngay lập tức, và chính sách tiếp tục hỗ trợ qua việc mua trái phiếu cần phải xem xét lại, với các đại diện là Áo, Bỉ, và Đức.

Vũ khí chính vẫn là lãi suất

Mặc dù có trong tay nhiều công cụ để can thiệp và hỗ trợ nền kinh tế trong giai đoạn khó khăn này nhưng chủ lực của các NHTW lớn vẫn là chính sách lãi suất.

Trước hết là bởi vì lãi suất tác động ngay đến thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường trái phiếu. Mà thị trường trái phiếu bao gồm cả trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp luôn là nơi mà các quỹ hưu trí, các công ty bảo hiểm dành một tỷ trọng quan trọng trong danh mục đầu tư của mình. Nếu lãi suất tăng, giá của lượnng trái phiếu đang nắm giữ sẽ giảm, và còn hơn thế nữa là giá trị thực của trái phiếu khi đáo hạn sẽ còn thấp hơn do ảnh hưởng của lạm phát.

Tăng lãi suất còn khiến cho giá của nhiều loại cổ phiếu sẽ phải điều chỉnh giảm trở lại, đặc biệt là nhóm cổ phiếu tăng trưởng đã có một giai đoạn tăng ngoạn mục như thời gian vừa qua. Lãi suất tăng cũng sẽ khiến cho thị trường tín dụng, cho vay bất động sản điều chỉnh để thích ứng, số lượng vay mới sẽ phải cân nhắc trước việc lãi suất tăng.

So với chính sách hỗ trợ thông qua mua trái phiếu chính phủ hay các loại chứng khoán có đảm bảo bằng thế chấp thì điều chỉnh lãi suất có không gian để thực hiện rộng hơn. Bởi vì việc chính phủ phát hành trái phiếu cũng phải có giới hạn trong khuôn khổ thâm hụt ngân sách và tỷ lệ nợ công của mình.

Và quan trọng cũng không kém đó là mặt bằng lãi suất ở các nền kinh tế phát triển đã thấp trong suốt một thời gian dài, khi bắt đầu giảm từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu. Có điều, đà tăng lãi suất trở lại có thể là một dấu hiệu cảnh báo cho những bất ổn của nền kinh tế trong thời gian ngắn hay trung hạn sắp tới. Ngày nay, với các mô hình dự báo tốt hơn, dữ liệu nhiều hơn và kết hợp với khả năng tính toán mô phỏng của máy tính ngày càng nhanh thì các kịch bản kinh tế được cập nhật rất nhanh. 

Việc điều chỉnh chính sách của các NHTW lớn vì vậy cũng có thể diễn ra thường xuyên hơn để thích ứng với các biến số không chắc chắn. Với các nền kinh tế lớn, có sự độc lập nhất định, thì lãi suất vẫn là một công cụ hữu hiệu để điều chỉnh thị trường, điều tiết nền kinh tế để đảm bảo thực hiện 3 nhiệm vụ chính của một ngân hàng trung ương: ổn định giá cả, giữ tỷ lệ thất nghiệp tối ưu, và nền kinh tế tăng trưởng trong dài hạn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Vui Lòng Lịch Sự & Chừng Mực, Cảm Ơn Bạn !