Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng (BCBS) trong tháng Tư vừa qua đã có 2 báo cáo nhằm giải thích các nguyên nhân và kênh truyền dẫn rủi ro BĐKH đến hệ thống ngân hàng, cũng như những thách thức trong việc lượng hóa rủi ro mới mẻ này đối với ngành tài chính.
Hai nhóm yếu tố có ảnh hưởng quan trọng
Theo BCBS, có 2 nhóm rủi ro lớn ảnh hưởng đến các rủi ro tài chính của hệ thống ngân hàng: rủi ro vật chất (physical) và rủi ro do quá trình chuyển đổi để thích nghi với BĐKH (transition). Trong rủi ro vật chất, báo cáo này phân chia thành cấp tính (acute) và mãn tính (chronic) rất thú vị như tình trạng bệnh tật của con người. Cấp tính là những rủi ro nghiêm trọng, có thể thấy được hiện tượng và hệ lụy rõ ràng như cháy rừng, lũ lụt, bão lũ, những đợt nóng/lạnh khốc liệt, phần lớn đây là những thảm họa thiên nhiên nghiêm trọng. Còn về rủi ro mãn tính, đó là các hiện tượng thiên nhiên bị thay đổi một cách từ từ, dồn tích theo tháng năm, hậu quả không thể thấy liền được nhưng mức độ nghiêm trọng còn lớn hơn vì thường bao phủ trên diện rộng. Các hiện tượng này có thể đề cập đến như hạn hán, sạt lở đất, nước biển dâng, lượng mưa hay độ ẩm có biên độ dao động ngày càng lớn dần.
Trong nhóm rủi ro thứ hai là do quá trình chuyển đổi, chi phí của việc chuyển đổi hay những rủi ro tiềm ẩn từ chuyển đổi cũng là nguyên nhân tác động đến các rủi ro tài chính. Cụ thể trong quá trình chuyển đổi, có sự thay đổi chính sách của các chính phủ và những chính sách này tác động rất lớn tới nền kinh tế. Ví dụ như vấn đề mục tiêu khí thải, các nước sẽ phải chuyển đổi sang hướng nền kinh tế xanh, giảm sự lệ thuộc vào nguyên liệu hóa thạch. Những chính sách này dĩ nhiên tác động đến rất nhiều doanh nghiệp và người lao động. Chỉ cần những thay đổi về chính sách thuế, chính sách trợ cấp cũng có thể khiến doanh nghiệp này phát triển thành công, còn doanh nghiệp khác phải phá sản.
Sự thay đổi về công nghệ trong quá trình chuyển đổi cũng là một yếu tố tác động đến các rủi ro tài chính. Các công nghệ tiết kiệm năng lượng, năng lượng tái tạo, công nghệ phương tiện giao thông dùng điện góp phần hình thành nhiều doanh nghiệp mới, tạo thêm nhiều công ăn việc làm nhưng cũng vì đó mà xóa sổ nhiều doanh nghiệp khác, cùng với đó dĩ nhiên là việc làm.
Yếu tố thứ ba trong rủi ro chuyển đổi đó là thay đổi hành vi của nhà đầu tư và người tiêu dùng. Xu hướng các nhà đầu tư ngày càng quan tâm đến ESG (Môi trường, Xã hội, Quản trị doanh nghiệp) buộc các doanh nghiệp muốn thu hút hay giữ chân nhà đầu tư thì phải có những thay đổi phù hợp. Mà một khi thay đổi thì phải chấp nhận với các rủi ro ở phía trước. Hành vi của người tiêu dùng cũng sẽ góp phần không nhỏ trong việc thay đổi chiến lược kinh doanh, hàng hóa dịch vụ của doanh nghiệp trên thị trường. Chẳng hạn các doanh nghiệp phải chuyển sang dùng nguyên liệu thân thiện với môi trường, quy trình sản xuất đạt các tiêu chuẩn ESG, hay đơn giản là ngày càng có nhiều người hạn chế bay những chuyến bay xa, làm việc, hội thảo, hội họp trực tuyến ngày càng phổ biến.
Kênh truyền dẫn rủi ro BĐKH sang rủi ro tài chính
Cũng theo báo cáo của BCBS, kênh truyền dẫn rủi ro BĐKH sang rủi ro tài chính được phân chia thành vi mô (microeconomic) và vĩ vô (macroeconomic). Ở góc độ vi mô, rủi ro khí hậu sẽ ảnh hưởng đến các hộ gia đình, doanh nghiệp, trong đó có cả các ngân hàng và định chế tài chính khác. Thiệt hại có thể gây ra đối với các tài sản hữu hình, hoặc làm giảm giá trị của của một số lớp tài sản như cổ phiếu, xếp hạng tín dụng của doanh nghiệp. Lấy ví dụ như một doanh nghiệp trong lĩnh vực khai khoáng, thiên tai xảy ra sẽ làm ảnh hưởng đến sản lượng khai thác, trong trường hợp không có bảo hiểm đầy đủ sẽ làm giảm tài sản của doanh nghiệp, giá cổ phiếu giảm (nếu niêm yết), và khả năng trả nợ bị ảnh hưởng, có thể ảnh hưởng đến xếp hạng tín dụng.
Ở góc độ vĩ mô, đó là ảnh hưởng của BĐKH đối với các nền kinh tế trên diện rộng nói chung, trên các biến số kinh tế vĩ mô. Đó là ảnh hưởng đến các vấn đề thể chế như thay đổi luật pháp, tổ chức lại bộ máy nhà nước thông qua sắp xếp, tạo mới các cơ quan quản lý, giám sát. Các biến số vĩ mô khác bị tác động bởi BĐKH còn bao gồm giá cả hàng hóa (commodities), tỷ giá, hoặc nợ của chính phủ qua trái phiếu phát hành.
Tuy vậy, ảnh hưởng của rủi ro BĐKH ở tầm vi mô và vĩ mô là không giống nhau. Sự khác biệt là do tính không đồng nhất về vị trí địa lý. Chẳng hạn những quốc gia có địa hình dài hay rộng thì mức độ ảnh hưởng đến các vùng địa phương cũng khác nhau. Những vùng ven biển sẽ khác với vùng cao, các nước cực Nam bán cầu sẽ khác với cực Bắc.
Sự khác nhau còn do mức độ khuếch đại (amplify) do sự tương tác giữa các yếu tố rủi ro, thiệt hại về tài chính bị khuếch đại, hoặc sự tương tác qua lại giữa các kênh truyền dẫn. Ở những nơi có sự liên kết chặt chẽ giữa các yếu tố thì tính lây nhiễm (contagion) sẽ cao, mức độ khuếch đại vì thế cũng tăng theo. Thiệt hại của một doanh nghiệp là một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng có thể gây thiệt hại lớn cho cả hệ thống.
Cuối cùng, sự ảnh hưởng khác nhau là do các giải pháp giảm thiểu tác động. Trong số này, phải kể đến hành vi và mô hình chiến lược kinh doanh của các ngân hàng, các định chế tài chính. Tiếp đến là khả năng thiết kế các sản phẩm bảo hiểm cũng như việc định giá để có mức phí bảo hiểm có thể chấp nhận được. Ví dụ rất rõ là bảo hiểm nông nghiệp là rất cần thiết, nhưng cản trở trong việc xác định mức phí có thể chi trả của nông dân là một trở ngại lớn. Thêm vào đó là việc phát triển, trưởng thành của thị trường tài chính để có thể “chứng khoán hóa” các rủi ro BĐKH, cũng như các công cụ phòng ngừa rủi ro (hedging). Ngành bảo hiểm đã có nhiều cố gắng trong việc cung cấp loại hình trái phiếu thiên tai (CAT bonds) nhưng thị trường sau một thời gian dài vẫn chưa phát triển được như kỳ vọng.
Thách thức lượng hóa rủi ro BĐKH
Hiện nay, việc đánh giá ảnh hưởng của rủi ro BĐKH đến rủi ro tài chính của ngành ngân hàng vẫn còn mới mẻ đối với các nhà quản lý rủi ro. Về lý thuyết, rủi ro BĐKH sẽ tác động đến các trụ cột rủi ro của ngân hàng như: rủi ro tín dụng (credit), rủi ro thị trường (market), rủi ro thanh khoản (liquidity), và rủi ro hoạt động (operational) theo khung của Basel.
Mặc dù đã xác định được các nhóm và yếu tố rủi ro BĐKH, cũng như các kênh truyền dẫn sang rủi ro tài chính, việc xây dựng được các mô hình để lượng hóa tần suất và mức độ nghiêm trọng vẫn đang ở giai đoạn khởi đầu, ngay cả ở những nền kinh tế phát triển.
Hiện nay, các chuyên gia quản lý rủi ro trong ngành ngân hàng ưu tiên hơn đến các yếu tố rủi ro trong nhóm quá trình chuyển đổi. Lý do được phỏng đoán là các ngân hàng không thể hay không có đủ dữ liệu rủi ro tài sản để đưa vào các mô hình ước lượng của mình. Chẳng hạn các yếu tố về thiên tai cần đủ lớn số lượng quan sát, chưa kể các thiên tai xảy ra ở các địa điểm khác nhau nên đằng sau có nhiều biến số tác động. Một lý do khác cũng được đưa ra là khả năng tài chính và bảo hiểm của các ngân hàng, các định chế tài chính vẫn ổn trong việc trích lập dự phòng hay tái bảo hiểm. Các báo cáo thống kê về thiệt hại cho thiên tai hàng năm của tập đoàn tái bảo hiểm hàng đầu thế giới Swiss Re cho thấy, thiệt hại lớn về tài sản tập trung ở các nước phát triển, và phần lớn đã có các công cụ bảo hiểm, nhưng tần suất xảy ra thấp. Trong khi đó ở các nước nghèo và kém phát triển thì thiên tai hay rủi ro BĐKH nhiều hơn, nhưng thiệt hại tài sản không nhiều, chủ yếu là thiệt hại về con người.
Các ngân hàng hiện nay vẫn tập trung nhiều hơn vào rủi ro tín dụng nên sẽ để ý hơn các nguồn rủi ro từ BĐKH ảnh hưởng đến rủi ro này. Chính vì vậy những rủi ro nào, dù trong rủi ro vật chất hay quá trình chuyển đổi, mà có liên quan sẽ đặt trong bán kính của ra-đa quản trị rủi ro của ngân hàng. Cụ thể như ngân hàng sẽ xem xét kỹ việc cấp tín dụng cho các doanh nghiệp hoạt động trong vùng có rủi ro thiên tai cao, các doanh nghiệp có độ nhạy cảm cao với các chính sách chuyển đổi sang nền kinh tế xanh ở cả 2 chiều tích cực và tiêu cực.
Việc lượng hóa các rủi ro BĐKH ảnh hưởng đến rủi ro tài chính là một công việc hết sức quan trọng như đầy thách thức. Trong tài chính, các vấn đề phải được lượng hóa thành các con số cụ thể một cách tối đa có thể. Chính vì vậy mà các mô hình đo lường rủi ro truyền thống như xác suất phá sản, mức độ thiệt hại tối đa có thể xảy ra (như mô hình VaR hay ES) cần có những phương pháp mới để tích hợp với các mô hình rủi ro trong BĐKH. Một thách thức khác là các rủi ro BĐKH thường có thuộc tính phi tuyến tính, nên các mô hình sẽ phức tạp và độ chính xác cũng là một thách thức lớn.
Theo BCBS, có 2 nhóm rủi ro lớn ảnh hưởng đến các rủi ro tài chính của hệ thống ngân hàng: rủi ro vật chất (physical) và rủi ro do quá trình chuyển đổi để thích nghi với BĐKH (transition). Trong rủi ro vật chất, báo cáo này phân chia thành cấp tính (acute) và mãn tính (chronic) rất thú vị như tình trạng bệnh tật của con người. Cấp tính là những rủi ro nghiêm trọng, có thể thấy được hiện tượng và hệ lụy rõ ràng như cháy rừng, lũ lụt, bão lũ, những đợt nóng/lạnh khốc liệt, phần lớn đây là những thảm họa thiên nhiên nghiêm trọng. Còn về rủi ro mãn tính, đó là các hiện tượng thiên nhiên bị thay đổi một cách từ từ, dồn tích theo tháng năm, hậu quả không thể thấy liền được nhưng mức độ nghiêm trọng còn lớn hơn vì thường bao phủ trên diện rộng. Các hiện tượng này có thể đề cập đến như hạn hán, sạt lở đất, nước biển dâng, lượng mưa hay độ ẩm có biên độ dao động ngày càng lớn dần.
Trong nhóm rủi ro thứ hai là do quá trình chuyển đổi, chi phí của việc chuyển đổi hay những rủi ro tiềm ẩn từ chuyển đổi cũng là nguyên nhân tác động đến các rủi ro tài chính. Cụ thể trong quá trình chuyển đổi, có sự thay đổi chính sách của các chính phủ và những chính sách này tác động rất lớn tới nền kinh tế. Ví dụ như vấn đề mục tiêu khí thải, các nước sẽ phải chuyển đổi sang hướng nền kinh tế xanh, giảm sự lệ thuộc vào nguyên liệu hóa thạch. Những chính sách này dĩ nhiên tác động đến rất nhiều doanh nghiệp và người lao động. Chỉ cần những thay đổi về chính sách thuế, chính sách trợ cấp cũng có thể khiến doanh nghiệp này phát triển thành công, còn doanh nghiệp khác phải phá sản.
Sự thay đổi về công nghệ trong quá trình chuyển đổi cũng là một yếu tố tác động đến các rủi ro tài chính. Các công nghệ tiết kiệm năng lượng, năng lượng tái tạo, công nghệ phương tiện giao thông dùng điện góp phần hình thành nhiều doanh nghiệp mới, tạo thêm nhiều công ăn việc làm nhưng cũng vì đó mà xóa sổ nhiều doanh nghiệp khác, cùng với đó dĩ nhiên là việc làm.
Yếu tố thứ ba trong rủi ro chuyển đổi đó là thay đổi hành vi của nhà đầu tư và người tiêu dùng. Xu hướng các nhà đầu tư ngày càng quan tâm đến ESG (Môi trường, Xã hội, Quản trị doanh nghiệp) buộc các doanh nghiệp muốn thu hút hay giữ chân nhà đầu tư thì phải có những thay đổi phù hợp. Mà một khi thay đổi thì phải chấp nhận với các rủi ro ở phía trước. Hành vi của người tiêu dùng cũng sẽ góp phần không nhỏ trong việc thay đổi chiến lược kinh doanh, hàng hóa dịch vụ của doanh nghiệp trên thị trường. Chẳng hạn các doanh nghiệp phải chuyển sang dùng nguyên liệu thân thiện với môi trường, quy trình sản xuất đạt các tiêu chuẩn ESG, hay đơn giản là ngày càng có nhiều người hạn chế bay những chuyến bay xa, làm việc, hội thảo, hội họp trực tuyến ngày càng phổ biến.
Kênh truyền dẫn rủi ro BĐKH sang rủi ro tài chính
Cũng theo báo cáo của BCBS, kênh truyền dẫn rủi ro BĐKH sang rủi ro tài chính được phân chia thành vi mô (microeconomic) và vĩ vô (macroeconomic). Ở góc độ vi mô, rủi ro khí hậu sẽ ảnh hưởng đến các hộ gia đình, doanh nghiệp, trong đó có cả các ngân hàng và định chế tài chính khác. Thiệt hại có thể gây ra đối với các tài sản hữu hình, hoặc làm giảm giá trị của của một số lớp tài sản như cổ phiếu, xếp hạng tín dụng của doanh nghiệp. Lấy ví dụ như một doanh nghiệp trong lĩnh vực khai khoáng, thiên tai xảy ra sẽ làm ảnh hưởng đến sản lượng khai thác, trong trường hợp không có bảo hiểm đầy đủ sẽ làm giảm tài sản của doanh nghiệp, giá cổ phiếu giảm (nếu niêm yết), và khả năng trả nợ bị ảnh hưởng, có thể ảnh hưởng đến xếp hạng tín dụng.
Ở góc độ vĩ mô, đó là ảnh hưởng của BĐKH đối với các nền kinh tế trên diện rộng nói chung, trên các biến số kinh tế vĩ mô. Đó là ảnh hưởng đến các vấn đề thể chế như thay đổi luật pháp, tổ chức lại bộ máy nhà nước thông qua sắp xếp, tạo mới các cơ quan quản lý, giám sát. Các biến số vĩ mô khác bị tác động bởi BĐKH còn bao gồm giá cả hàng hóa (commodities), tỷ giá, hoặc nợ của chính phủ qua trái phiếu phát hành.
Tuy vậy, ảnh hưởng của rủi ro BĐKH ở tầm vi mô và vĩ mô là không giống nhau. Sự khác biệt là do tính không đồng nhất về vị trí địa lý. Chẳng hạn những quốc gia có địa hình dài hay rộng thì mức độ ảnh hưởng đến các vùng địa phương cũng khác nhau. Những vùng ven biển sẽ khác với vùng cao, các nước cực Nam bán cầu sẽ khác với cực Bắc.
Sự khác nhau còn do mức độ khuếch đại (amplify) do sự tương tác giữa các yếu tố rủi ro, thiệt hại về tài chính bị khuếch đại, hoặc sự tương tác qua lại giữa các kênh truyền dẫn. Ở những nơi có sự liên kết chặt chẽ giữa các yếu tố thì tính lây nhiễm (contagion) sẽ cao, mức độ khuếch đại vì thế cũng tăng theo. Thiệt hại của một doanh nghiệp là một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng có thể gây thiệt hại lớn cho cả hệ thống.
Cuối cùng, sự ảnh hưởng khác nhau là do các giải pháp giảm thiểu tác động. Trong số này, phải kể đến hành vi và mô hình chiến lược kinh doanh của các ngân hàng, các định chế tài chính. Tiếp đến là khả năng thiết kế các sản phẩm bảo hiểm cũng như việc định giá để có mức phí bảo hiểm có thể chấp nhận được. Ví dụ rất rõ là bảo hiểm nông nghiệp là rất cần thiết, nhưng cản trở trong việc xác định mức phí có thể chi trả của nông dân là một trở ngại lớn. Thêm vào đó là việc phát triển, trưởng thành của thị trường tài chính để có thể “chứng khoán hóa” các rủi ro BĐKH, cũng như các công cụ phòng ngừa rủi ro (hedging). Ngành bảo hiểm đã có nhiều cố gắng trong việc cung cấp loại hình trái phiếu thiên tai (CAT bonds) nhưng thị trường sau một thời gian dài vẫn chưa phát triển được như kỳ vọng.
Thách thức lượng hóa rủi ro BĐKH
Hiện nay, việc đánh giá ảnh hưởng của rủi ro BĐKH đến rủi ro tài chính của ngành ngân hàng vẫn còn mới mẻ đối với các nhà quản lý rủi ro. Về lý thuyết, rủi ro BĐKH sẽ tác động đến các trụ cột rủi ro của ngân hàng như: rủi ro tín dụng (credit), rủi ro thị trường (market), rủi ro thanh khoản (liquidity), và rủi ro hoạt động (operational) theo khung của Basel.
Mặc dù đã xác định được các nhóm và yếu tố rủi ro BĐKH, cũng như các kênh truyền dẫn sang rủi ro tài chính, việc xây dựng được các mô hình để lượng hóa tần suất và mức độ nghiêm trọng vẫn đang ở giai đoạn khởi đầu, ngay cả ở những nền kinh tế phát triển.
Hiện nay, các chuyên gia quản lý rủi ro trong ngành ngân hàng ưu tiên hơn đến các yếu tố rủi ro trong nhóm quá trình chuyển đổi. Lý do được phỏng đoán là các ngân hàng không thể hay không có đủ dữ liệu rủi ro tài sản để đưa vào các mô hình ước lượng của mình. Chẳng hạn các yếu tố về thiên tai cần đủ lớn số lượng quan sát, chưa kể các thiên tai xảy ra ở các địa điểm khác nhau nên đằng sau có nhiều biến số tác động. Một lý do khác cũng được đưa ra là khả năng tài chính và bảo hiểm của các ngân hàng, các định chế tài chính vẫn ổn trong việc trích lập dự phòng hay tái bảo hiểm. Các báo cáo thống kê về thiệt hại cho thiên tai hàng năm của tập đoàn tái bảo hiểm hàng đầu thế giới Swiss Re cho thấy, thiệt hại lớn về tài sản tập trung ở các nước phát triển, và phần lớn đã có các công cụ bảo hiểm, nhưng tần suất xảy ra thấp. Trong khi đó ở các nước nghèo và kém phát triển thì thiên tai hay rủi ro BĐKH nhiều hơn, nhưng thiệt hại tài sản không nhiều, chủ yếu là thiệt hại về con người.
Các ngân hàng hiện nay vẫn tập trung nhiều hơn vào rủi ro tín dụng nên sẽ để ý hơn các nguồn rủi ro từ BĐKH ảnh hưởng đến rủi ro này. Chính vì vậy những rủi ro nào, dù trong rủi ro vật chất hay quá trình chuyển đổi, mà có liên quan sẽ đặt trong bán kính của ra-đa quản trị rủi ro của ngân hàng. Cụ thể như ngân hàng sẽ xem xét kỹ việc cấp tín dụng cho các doanh nghiệp hoạt động trong vùng có rủi ro thiên tai cao, các doanh nghiệp có độ nhạy cảm cao với các chính sách chuyển đổi sang nền kinh tế xanh ở cả 2 chiều tích cực và tiêu cực.
Việc lượng hóa các rủi ro BĐKH ảnh hưởng đến rủi ro tài chính là một công việc hết sức quan trọng như đầy thách thức. Trong tài chính, các vấn đề phải được lượng hóa thành các con số cụ thể một cách tối đa có thể. Chính vì vậy mà các mô hình đo lường rủi ro truyền thống như xác suất phá sản, mức độ thiệt hại tối đa có thể xảy ra (như mô hình VaR hay ES) cần có những phương pháp mới để tích hợp với các mô hình rủi ro trong BĐKH. Một thách thức khác là các rủi ro BĐKH thường có thuộc tính phi tuyến tính, nên các mô hình sẽ phức tạp và độ chính xác cũng là một thách thức lớn.
Tóm lại, rủi ro BĐKH đối với các ngân hàng, với sự ổn định của hệ thống tài chính không còn là nguy cơ nữa mà đã hiện hữu và ngày càng cấp bách. Các NHTW đã bắt đầu hành động thì tiếp theo sẽ là các ngân hàng lớn, rồi sẽ triển khai rộng khắp ở các nền kinh tế. Thách thức lớn nhất đối với các chuyên gia quản trị rủi ro không phải ở xác định các yếu tố rủi ro và cơ chế truyền dẫn, mà là ở cơ sở dữ liệu và các mô hình tính toán. Muốn vậy, cần có sự phối hợp giữa nhiều ngành với nhau, nhất là tài chính với khoa học môi trường, cần có thêm nhiều dữ liệu, và sự cộng tác giữa các ngân hàng, các chính phủ với nhau. Vì BĐKH không phải là vấn đề của một ngân hàng hay một chính phủ. Nó là vấn đề toàn cầu, và là rủi ro hệ thống.
Viết cùng Lê Nguyễn Minh Phương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Vui Lòng Lịch Sự & Chừng Mực, Cảm Ơn Bạn !