Giá tăng khắp nơi
Khu vực đồng Euro lần đầu tiên trong 13 năm qua ghi nhận lạm phát trong tháng 9 tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước (YoY), mà phần đóng góp lớn nhất là giá năng lượng khi mặt hàng này tăng đến 17,4%. Nếu bỏ lương thực thực phẩm và năng lượng ra khỏi rổ hàng hóa thì lạm phát là 1,9%. Các phương tiện truyền thông ở Pháp và châu Âu thời gian gần đây liên tục đề cập đến vấn đề giá cả tăng, từ các mặt hàng thiết yếu đến hàng tiêu dùng cho dịp cuối năm sắp đến. Nhiều người dân ở Pháp đã tìm rất đủ cách để giảm chi phí xăng dầu: từ đi làm chung xe đến chế độ lại xe để dùng nhiên liệu rẻ hơn như gaz hay ethanol. Giá các mặt hàng trang trí, quà tặng cuối năm đã rục rịch tăng do giá vận chuyển đường biến Á-Âu cũng như tình hình gián đoạn các đơn hàng do dịch bệnh ở châu Á.
Trong khi đó, lạm phát tháng 9 của Hoa Kỳ tăng kỷ lục là 5,4% so với cùng kỳ năm trước. Một phần là do giá nhiên liệu tăng đột biến nhưng cũng một phần do chuỗi cung ứng bị hiệu ứng cổ chai (supply chain bottlenecks). Một bên là các gói hỗ trợ kinh tế dồi dào, lên đến 10 ngàn tỷ USD, trong đó một nửa số này là từ Mỹ, và một bên là sự thiếu hụt lao động hay các các chuỗi cung ứng bị đứt gãy. Khác với châu Âu, người dân Mỹ chịu nhiều áp lực giá tăng ở các mặt hàng lương thực thực phẩm và tiền thuê nhà.
Còn tại Trung Quốc, chỉ số giá nhà sản xuất (PPI) tháng 9 đã tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước, một mức cũng là kỷ lục kể từ cơ quan thống kê quốc gia nước này có số liệu từ năm 1996. Và nguyên nhân cũng không có gì khác: giá nguyên liệu tăng đột biến thời gian qua. Không những thế, áp lực tăng giá từ phía các nhà sản xuất do khủng hoảng năng lượng mà cụ thể hơn là việc giảm lượng cung cấp điện ở Trung Quốc gây chấn động vừa qua.
Chân thắng chân ga
Khi khủng hoảng xảy ra, hầu hết các nền kinh tế lớn và các nước phát triển đều mạnh tay với chính sách tài khóa: các gói hỗ trợ được đưa ra có thể nói là ào ạt, đến doanh nghiệp, người dân và cả nền kinh tế nói chung. Cung tiền tăng, giãn cách xã hội khiến nhu cầu trong một số lĩnh vực tăng mạnh làm khiến giá cả tăng theo có thể đề cập đến như lương thực thực phẩm, vận tải, thông tin liên lạc. Giá nhà đã tăng khi bắt đầu dịch và còn tiếp tục tăng sau khi dịch đã được kiểm soát ở nhiều nơi. Sản xuất phục hồi và nhu cầu năng lượng cho mùa đông là những lý do chính khiến cho giá năng lượng tăng mạnh thời gian qua.
Nhưng áp lực giá tăng với các nền kinh tế lớn là không giống nhau, có thể ví von như một người tài xế chân thắng chân ga khi đang qua một cung đường nguy hiểm.
Với Hoa Kỳ và châu Âu, đó là tiếp tục kiên trì hỗ trợ cho nền kinh tế hồi phục, nhưng cùng với đó là cẩn thận để lạm phát không bùng lên và kéo dài. Theo ước tính của IMF, các nền kinh tế phát triển sẽ có lạm phát vào khoảng 3,6% vào cuối năm, và sau đó quay về mốc 2% như mục tiêu của các ngân hàng trung ương vào giữa 2022. Trong khi đó các nền kinh tế mới nổi có thể lên đến 6,8% và quay về lại mốc 4%.
Còn vấn đề đau đầu của Trung Quốc lại là giá sản xuất đã tăng cao, không còn nhiều không gian để tiết giảm trong khi nhu cầu nội địa có xu hướng yếu, và cần hỗ trợ để hồi phục từ phía cầu. Do đó để có được một chính sách tiền tệ tốt trong lúc này hài hòa cả 2 phía và không đẩy lạm phát tăng. Đối với các nhà sản xuất Trung Quốc, những nút thắt cổ chai vẫn còn nên họ không thể giảm được thêm chi phí, không khi thì khả năng chi trả của người tiêu dùng thì không thể tăng thêm.
Có điều, không có nhiều người để ý rằng lạm phát thật ra là sự kỳ vọng, và đó kỳ vọng về sự thay đổi của giá cả trong ngắn hạn tức một vài tháng. Và hơn nữa, lại là kỳ vọng của nhiều nhóm người khác nhau: dân chúng, doanh nghiệp, nhà đầu tư, các nhà dự báo, và ngân hàng trung ương. Nhưng không có một nhóm riêng lẻ nào có thể dự báo được lạm phát. Theo Jeremy B. Rudd, một thành viên của Fed và được xem là một trong những cây đa cây đề về lạm phát thì kỳ vọng lạm phát phụ thuộc nhiều nhất vào uy tín của ngân hàng trung ương, tiếp đến là trải nghiệm với lạm phát và cuối cùng là nếu kỳ vọng hay lo sợ lạm phát trong một thời gian dài thì nó sẽ trở thành hiện thực.
Có khó hơn cho Việt Nam ?
Là một nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam thì lo ngại lạm phát ở các nền kinh tế lớn dĩ nhiên là có ảnh hưởng đến Việt Nam. Các thị truòng nhập khẩu lớn như Hoa Kỳ và châu Âu có thể chấp nhận một sự tăng giá hợp lý trong bối cảnh chung, nhưng cũng có thể vì giá tăng mà người tiêu dùng các nước này thay đổi hành vi chi tiêu của mình: ưu tiên cho các mặt hàng thiết yếu và giảm chi tiêu cho các mặt hàng mà Việt nam có thế mạnh xuất khẩu như thiết bị điện tử, giày dép quần áo của các thương hiệu lớn.
Trong khi đó Việt nam có tỷ trọng nhập khẩu khá lớn từ Trung Quốc, nếu như các yếu tố đầu vào nhập từ Trung Quốc tăng giá thì giá thành sản phẩm dịch vụ sẽ phải tăng hoặc biên lợi nhuận của doanh nghiệp phải giảm xuống.
Trong trường hợp Việt Nam tiếp tục hỗ trợ mạnh nền kinh tế bằng chính sách tài khóa, thì tình thế khó xử (paradox) cũng sẽ lặp lại như ở nhiều nền kinh tế khác khi khống chế được dịch và phục hồi kinh tế: cung tiền nhiều, nhu cầu tăng nhưng phía cung bị hạn chế do hiện tượng nghẽn nút chai, chi phí đầu vào sản xuất đã cao và không thể giảm hơn nữa.
Cộng với tâm lý lo ngại lạm phát và những gì đang diễn ra xung quanh ở trên thế giới thì rất dễ kỳ vọng này trở thành hiện thực. Nhưng điều đáng lo ngại nhất là ở các nước, lạm phát có thể tăng nhanh trong một giai đoạn ngắn, ngân hàng trung ương can thiệp bằng các công cụ của mình, trong đó quan trọng nhất là lãi suất để đưa lạm phát về lại mục tiêu.
Khu vực đồng Euro lần đầu tiên trong 13 năm qua ghi nhận lạm phát trong tháng 9 tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước (YoY), mà phần đóng góp lớn nhất là giá năng lượng khi mặt hàng này tăng đến 17,4%. Nếu bỏ lương thực thực phẩm và năng lượng ra khỏi rổ hàng hóa thì lạm phát là 1,9%. Các phương tiện truyền thông ở Pháp và châu Âu thời gian gần đây liên tục đề cập đến vấn đề giá cả tăng, từ các mặt hàng thiết yếu đến hàng tiêu dùng cho dịp cuối năm sắp đến. Nhiều người dân ở Pháp đã tìm rất đủ cách để giảm chi phí xăng dầu: từ đi làm chung xe đến chế độ lại xe để dùng nhiên liệu rẻ hơn như gaz hay ethanol. Giá các mặt hàng trang trí, quà tặng cuối năm đã rục rịch tăng do giá vận chuyển đường biến Á-Âu cũng như tình hình gián đoạn các đơn hàng do dịch bệnh ở châu Á.
Trong khi đó, lạm phát tháng 9 của Hoa Kỳ tăng kỷ lục là 5,4% so với cùng kỳ năm trước. Một phần là do giá nhiên liệu tăng đột biến nhưng cũng một phần do chuỗi cung ứng bị hiệu ứng cổ chai (supply chain bottlenecks). Một bên là các gói hỗ trợ kinh tế dồi dào, lên đến 10 ngàn tỷ USD, trong đó một nửa số này là từ Mỹ, và một bên là sự thiếu hụt lao động hay các các chuỗi cung ứng bị đứt gãy. Khác với châu Âu, người dân Mỹ chịu nhiều áp lực giá tăng ở các mặt hàng lương thực thực phẩm và tiền thuê nhà.
Còn tại Trung Quốc, chỉ số giá nhà sản xuất (PPI) tháng 9 đã tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước, một mức cũng là kỷ lục kể từ cơ quan thống kê quốc gia nước này có số liệu từ năm 1996. Và nguyên nhân cũng không có gì khác: giá nguyên liệu tăng đột biến thời gian qua. Không những thế, áp lực tăng giá từ phía các nhà sản xuất do khủng hoảng năng lượng mà cụ thể hơn là việc giảm lượng cung cấp điện ở Trung Quốc gây chấn động vừa qua.
Chân thắng chân ga
Khi khủng hoảng xảy ra, hầu hết các nền kinh tế lớn và các nước phát triển đều mạnh tay với chính sách tài khóa: các gói hỗ trợ được đưa ra có thể nói là ào ạt, đến doanh nghiệp, người dân và cả nền kinh tế nói chung. Cung tiền tăng, giãn cách xã hội khiến nhu cầu trong một số lĩnh vực tăng mạnh làm khiến giá cả tăng theo có thể đề cập đến như lương thực thực phẩm, vận tải, thông tin liên lạc. Giá nhà đã tăng khi bắt đầu dịch và còn tiếp tục tăng sau khi dịch đã được kiểm soát ở nhiều nơi. Sản xuất phục hồi và nhu cầu năng lượng cho mùa đông là những lý do chính khiến cho giá năng lượng tăng mạnh thời gian qua.
Nhưng áp lực giá tăng với các nền kinh tế lớn là không giống nhau, có thể ví von như một người tài xế chân thắng chân ga khi đang qua một cung đường nguy hiểm.
Với Hoa Kỳ và châu Âu, đó là tiếp tục kiên trì hỗ trợ cho nền kinh tế hồi phục, nhưng cùng với đó là cẩn thận để lạm phát không bùng lên và kéo dài. Theo ước tính của IMF, các nền kinh tế phát triển sẽ có lạm phát vào khoảng 3,6% vào cuối năm, và sau đó quay về mốc 2% như mục tiêu của các ngân hàng trung ương vào giữa 2022. Trong khi đó các nền kinh tế mới nổi có thể lên đến 6,8% và quay về lại mốc 4%.
Còn vấn đề đau đầu của Trung Quốc lại là giá sản xuất đã tăng cao, không còn nhiều không gian để tiết giảm trong khi nhu cầu nội địa có xu hướng yếu, và cần hỗ trợ để hồi phục từ phía cầu. Do đó để có được một chính sách tiền tệ tốt trong lúc này hài hòa cả 2 phía và không đẩy lạm phát tăng. Đối với các nhà sản xuất Trung Quốc, những nút thắt cổ chai vẫn còn nên họ không thể giảm được thêm chi phí, không khi thì khả năng chi trả của người tiêu dùng thì không thể tăng thêm.
Có điều, không có nhiều người để ý rằng lạm phát thật ra là sự kỳ vọng, và đó kỳ vọng về sự thay đổi của giá cả trong ngắn hạn tức một vài tháng. Và hơn nữa, lại là kỳ vọng của nhiều nhóm người khác nhau: dân chúng, doanh nghiệp, nhà đầu tư, các nhà dự báo, và ngân hàng trung ương. Nhưng không có một nhóm riêng lẻ nào có thể dự báo được lạm phát. Theo Jeremy B. Rudd, một thành viên của Fed và được xem là một trong những cây đa cây đề về lạm phát thì kỳ vọng lạm phát phụ thuộc nhiều nhất vào uy tín của ngân hàng trung ương, tiếp đến là trải nghiệm với lạm phát và cuối cùng là nếu kỳ vọng hay lo sợ lạm phát trong một thời gian dài thì nó sẽ trở thành hiện thực.
Có khó hơn cho Việt Nam ?
Là một nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam thì lo ngại lạm phát ở các nền kinh tế lớn dĩ nhiên là có ảnh hưởng đến Việt Nam. Các thị truòng nhập khẩu lớn như Hoa Kỳ và châu Âu có thể chấp nhận một sự tăng giá hợp lý trong bối cảnh chung, nhưng cũng có thể vì giá tăng mà người tiêu dùng các nước này thay đổi hành vi chi tiêu của mình: ưu tiên cho các mặt hàng thiết yếu và giảm chi tiêu cho các mặt hàng mà Việt nam có thế mạnh xuất khẩu như thiết bị điện tử, giày dép quần áo của các thương hiệu lớn.
Trong khi đó Việt nam có tỷ trọng nhập khẩu khá lớn từ Trung Quốc, nếu như các yếu tố đầu vào nhập từ Trung Quốc tăng giá thì giá thành sản phẩm dịch vụ sẽ phải tăng hoặc biên lợi nhuận của doanh nghiệp phải giảm xuống.
Trong trường hợp Việt Nam tiếp tục hỗ trợ mạnh nền kinh tế bằng chính sách tài khóa, thì tình thế khó xử (paradox) cũng sẽ lặp lại như ở nhiều nền kinh tế khác khi khống chế được dịch và phục hồi kinh tế: cung tiền nhiều, nhu cầu tăng nhưng phía cung bị hạn chế do hiện tượng nghẽn nút chai, chi phí đầu vào sản xuất đã cao và không thể giảm hơn nữa.
Cộng với tâm lý lo ngại lạm phát và những gì đang diễn ra xung quanh ở trên thế giới thì rất dễ kỳ vọng này trở thành hiện thực. Nhưng điều đáng lo ngại nhất là ở các nước, lạm phát có thể tăng nhanh trong một giai đoạn ngắn, ngân hàng trung ương can thiệp bằng các công cụ của mình, trong đó quan trọng nhất là lãi suất để đưa lạm phát về lại mục tiêu.
Còn ở Việt nam, mỗi khi một mặt bằng giá mới được thiết lập thì việc kéo xuống là vô cùng khó khăn. Nguy hiểm hơn, một bộ phận dân chúng, doanh nghiệp, và nhà đầu tư mỗi khi đón nhận thông điệp từ Ngân hàng nhà nước, là tự tìm giải pháp đương đầu với lạm phát theo cách hiểu và kinh nghiệm của riêng mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Vui Lòng Lịch Sự & Chừng Mực, Cảm Ơn Bạn !