14 thg 5, 2021

Vì sao doanh nghiệp SMEs được hỗ trợ ít ?

Ở hầu hết các nền kinh tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) như là hệ thống các mạch máu nhỏ li ti trong một cơ thể. Đại dịch Covid-19 hơn một năm qua đã làm tổn thương nặng hệ thống này, nhất là trong lĩnh vực dịch vụ, những dịch vụ có tiếp xúc trực tiếp giữa người với người. Trong khi ở nhiều quốc gia, các DNVVN là trọng tâm của các chính sách hỗ trợ, thì theo một nghiên cứu mới đây của Tổ chức OECD, Việt Nam thực hiện 5/18 chính sách trong 4 nhóm chính sách lớn. Vì sao DNVVN ở Việt Nam ít được hỗ trợ trong năm vừa qua ?
Cảm xoàng hay bệnh nặng ?

Mặc dù Việt Nam là một trong những quốc gia có kết quả phòng chống, kiểm soát dịch Covid-19 tiêu biểu của thế giới, ảnh hưởng từ bên ngoài đến DNVVN là không thể tránh khỏi, nhất là những lĩnh vực có liên quan với thị trường bên ngoài như du lịch quốc tế, xuất khẩu do bị gián đoạn chuỗi cung ứng. Một số đợt giãn cách xã hội cũng có ảnh hưởng nhất định đến tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuần nội địa.

Nhưng để biết được mức độ thiệt hại do Covid-19 gây ra đối với các DNVVN ở Việt Nam thì chẳng khác gì thầy bói xem voi. Bởi vì các đánh giá thời gian qua chủ yếu chỉ dựa trên …khảo sát. Mà các câu trả lời của người được khảo sát dễ bị thiên lệch (bias) do tâm lý trầm trọng hơn tin tức xấu, hoặc kỳ vọng sẽ được hỗ trợ nhiều hơn nếu có nhiều khó khăn hơn.

Trong khi đó, doanh thu và lợi nhuận thực của nhiều DNVVN là rất khó kiểm chứng vì hiện tượng có nhiều hơn một hệ thống sổ sách kế toán và “cưa thuế”. Theo Sách trắng Doanh nghiệp 2020, các DNVVN chiếm đa số nhưng xét tổng thể thì hiệu quả lại không có khi trên sổ sách lỗ đến 54,3 ngàn tỷ đồng. Chỉ cần quan sát hiện tượng không xuất hóa đơn của rất nhiều DNVVV, cũng như hiện tượng lao động không khai báo, không đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc cũng thấy được phần “phi chính thức” của khu vực kinh tế này.

Cho nên để biết được thiệt hại thực tế do ảnh hưởng của Covid-19 là khó hơn so với những nước có hệ thống quản lý thuế chặt chẽ, nhân viên sở thuế liêm chính, và ý thức chấp hành luật thuế của doanh nghiệp. Chẳng hạn việc xuất hóa đơn là bắt buộc và rất bình thường ở nhiều nước, vì chủ yếu xuất phát từ nhu cầu của bên mua hàng hóa dịch vụ. Không chỉ là chứng từ để khấu trừ chi phí đầu vào khi cần thiết, hóa đơn mua hàng hóa dịch vụ còn là bằng chứng trong trường hợp cần bảo hành, hay đảm bảo bên cung cấp thực hiện trách nhiệm của mình khi có vấn đề phát sinh. Văn hóa ở nhiều nước cho thấy người ta sẵn sàng trả thêm 10% thuế VAT để có có hóa đơn như một sự đảm bảo, cũng như họ biết được rằng đóng thuế là một nghĩa vụ, cần thiết để chính phủ duy trì được hoạt động và đảm bảo các dịch vụ công, các phúc lợi xã hội.

Qua đợt hỗ trợ của một số chính phủ châu Âu thời gian qua, những DNVVN nào khai gian thuế là phải tự chịu hậu quả của mình tạo ra trước đó. Vì chính phủ sẽ căn cứ vào doanh thu năm trước đó, cũng như số lao động chính thức có khai báo bảo hiểm xã hội bắt buộc qua số giờ làm để có mức hỗ trợ tương ứng. Nhiều doanh nghiệp có chủ là người gốc châu Á, khai thấp doanh thu, khai thiếu số giờ của người lao động, và do đó các khoản hỗ trợ nhận được từ chính phủ cũng bị thấp đi, lúc trước càng “giấu” nhiều, thì bây giờ nhận hỗ trợ càng ít.

Có xem nhẹ DNVVN ?

Có nhiều lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề bởi Covid-19 khi giãn cách xã hội và chuỗi cung ứng bị gián đoạn. Và trong các lĩnh vực này, sự hiện diện của các DNVVN là rất lớn. Ví dụ điển hình là dịch vụ ăn uống, du lịch, bán lẻ, dịch vụ cá nhân. Mặc dù quy mô kinh tế nhỏ hơn nhưng các DNVVN này lại chiếm một tỷ trọng lớn về lực lượng lao động. Có những nước, DNVVN chiếm gần như tuyệt đối về số lượng lao động trong những lĩnh vực bị ảnh hưởng bởi dịch như Hy Lạp và Ý. Ngoài ra, lao động trong các DNVVN đa phần là lao động có mức thu nhập cơ bản, nên đây là nhóm bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất trong khủng hoảng.

Chiếm số lượng nhiều, cả về lực lượng lao động, nhưng DNVVV rất mong manh trước khủng hoảng.

Các DNVVN cũng có nhiều bấp bênh về tài chính hơn, với dự phòng tiền mặt thấp hơn các doanh nghiệp lớn cùng ngành. Vì lý do đó, khi gặp khủng hoảng thì các DNVVN có khả năng chống chịu và phục hồi kém hơn. Một nghiên cứu của JP Morgan and Chase cho biết khoảng 50% DNVVN ở Mỹ có dự trữ tiền mặt dưới 27 ngày. Các DNVVN cũng có tiếp cận các nguồn tài chính khác, và dựa chủ yếu và lợi nhuận giữ lại hay vay trực tiếp từ ngân hàng.

Việc gián đoạn chuỗi cung ứng cũng ảnh hưởng đến các DNVVN nhanh, và mạnh hơn. Như trong đại dịch vừa qua, các DNVVN trong lĩnh vực sản xuất hay thương mại có hệ thống nhà cung cấp rất hạn chế nên bị đứt gãy khi không thể nhanh chóng tìm được nguồn cung khác thay thế, giá đầu vào tăng ngoài khả năng kiểm soát.

Thêm vào đó khả năng áp dụng công nghệ, chuyển đổi số của DNVVN còn hạn chế rất nhiều, do thiếu nguồn lực. Ở một số nước châu Âu, khi các doanh nghiệp được yêu cầu thực hiện chính sách “làm việc từ xa” thì các DNVVN gặp rất nhiều khó khăn. Chẳng hạn như để làm được việc được tại nhà, thì doanh nghiệp phải trang bị hệ thống VPN cho người lao động, cũng như thiết bị làm việc và một số đào tạo nhất định.

Như vậy, vai trò của DNVVN trong nền kinh tế là rất quan trọng, nhưng lại là khu vực kinh tế dễ bị tổn thương khi khủng hoảng xảy ra. Thường thì sự sụt giảm nhanh doanh thu với tốc độ lớn hơn nhiều khả năng cắt giảm chi phí của doanh nghiệp, và do đó khả năng xảy ra tình trạng mất thanh khoản là rất cao, có thể dẫn đến vỡ nợ, và hiệu ứng domino có thể ảnh hưởng đến cả nền kinh tế.

Gói cứu trợ 62.000 tỷ theo kế hoạch của Chính phủ năm vừa rồi đã không thực sự mang lại hiệu quả vì phần nhận được của DNVVN không đáng là bao. Theo nghiên cứu của OECD, trong số 18 chính sách thì Việt Nam thực hiện được 5 chính sách là hỗ trợ tiền lương, giãn thuế thu nhập doanh nghiệp, thế VAT, đóng bảo hiểm xã hội, tiền thuê. Các chính sách thông qua các công cụ tài chính, tái cấu trúc như đào tạo, sắp xếp lại việc làm, đẩy mạnh số hóa và làm việc từ xa v.v.. thì vẫn chưa thấy (không biết là có kế hoạch chưa).


Các nước đã làm gì ?

Chính phủ đang dự kiến có chương trình hỗ trợ nền kinh tế vượt qua khó khăn, lấy lại đà tăng trưởng. Tuy nhiên, các thông tin có được từ buổi họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 4/2021 vẫn tập trung vào các giải pháp hoãn, giãn nợ, hay các khoản thuế phải nộp, các khoản vay,

Trong khi đó, theo tổng kết của OECD trong 1 năm qua thì chính phủ nhiều nước hỗ trợ DNVVN tập trung vào hỗ trợ khả năng thanh khoản cũng như tính cấu trúc của doanh nghiệp.

Về tính thanh khoản, các chính sách nằm trong 3 nhóm chính sau: i) chính sách duy trì việc làm như hỗ trợ chi phí lương cho doanh nghiệp, các chương trình việc làm ngắn ngày cho lao động vừa bị thất nghiệp ii) giãn/hoãn các nghĩa vụ thuế đối với chính phủ, tiền thuê, và iii) hỗ trợ tài chính qua các kênh như vay đơn giản, nhanh, được chính phủ bảo lãnh, kể cả vay qua hình thức góp vốn cổ phần của chính phủ, cac khoản vay có thể chuyển đổi (convertible loans).

Những hỗ trợ mang tính cấu trúc nhằm giúp các DNVVN thích ứng với môi trường mới, tăng khả năng chống chịu và hồi phục (resilience). Cụ thể các chính sách liên quan đến hỗ trợ khả năng chuyển đổi số, thương mại điện tử, làm việc từ xa; hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao kỹ năng hoặc củng cố lại kỹ năng cho người lao động, hỗ trợ đổi mới sáng tạo; hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp, hỗ trợ phát triển thị trường mới. Một ví dụ rất thành công ở Pháp là hình thức bếp nhà hàng tập trung. Nghĩa là có một nơi cho rất nhiều bếp nhà hàng thuê chỗ, các đơn hàng được đặt online, các bếp chia sẻ với nhau những vật liệu và nguyên liệu chung, họ trả phí hoa hồng trên mỗi đơn hàng nhận được.

Qua quan sát các chính sách, nghiên cứu của OECD đã đúc kết được một số bài học kinh nghiệm quan trọng về chính sách ứng phó với Covid-19 như sau:

Thứ nhất, các chính sách hỗ trợ cần nhanh chóng kịp thời, thủ tục đơn giản, thông qua hạ tầng số, tuy nhiên cũng cần lưu ý đến tính hiệu quả và độ tin cậy. Bởi vì hỗ trợ thanh khoản của các doanh nghiệp là cấp bách nhưng cũng tránh những trường hợp lợi dụng trục lợi.

Thứ hai, các hỗ trợ chú ý nhiều hơn đến các doanh nghiệp có khả năng trụ vững, tình hình kinh doanh trước đó lành mạnh, chỉ bị cú sốc đột ngột. Chú ý đến các doanh nghiệp khởi nghiệp, những doanh nghiệp trong nhóm dễ bị tổn thươn như của phụ nữ, của nhóm người thiểu số.

Thứ ba, các kênh hỗ trợ tài chính có thể thông qua vốn cổ phần, tương tự vốn cổ phần (quasi-equity), cũng như các hình thức tài trợ trực tiếp không hoàn lại.

Thứ tư, sự phối hợp ở các cấp của chính phủ toàn diện và hiệu quả. Các chính sách từ trung ương nếu không được thông suốt thì hiệu quả sẽ không để đạt được như mục tiêu đặt ra.

Cuối cùng, là tăng cường khả năng chuyển đổi số, tăng cường khả năng thích ứng, cũng như chuyển đổi cho các doanh nghiệp, từ việc tìm thị trường mới hay chuyển đổi sản phẩm, công nghệ.

Lời kết

Việc hỗ trợ DNVVN trong năm đại dịch vừa qua gợi lên câu hỏi: không lẽ chính phủ nghĩ rằng DNVNN ở Việt Nam không bị ảnh hưởng nhiều, nếu có cũng chỉ là cảm xoàng và cũng đã có “dự phòng” từ việc giấu lợi nhuận ? Hay là thấy được tình trạng khó khăn của DNVVN nhưng ưu tiên thì dành cho các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước ?

Sẽ là nghiêm trọng nếu rơi vào tình huống số hai vì nhiều thực tiễn cho thấy khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là DNVVN mới là động lực chính của nền kinh tế phát triển. Và nếu là tình huống số một thì giải pháp nào để các DNVVN giảm dần tỷ lệ phi chính thức trong hoạt động của mình, vì lợi ích của ngân sách và bên mua hàng hóa dịch vụ nói chung ? 

Đại dịch Covid-19 gây nhiều thiệt hại, nhưng ở một góc độ tích cực nào đó, nó cũng cho thấy mặt trái của những vấn đề mà nếu chỉ nhìn trong ngắn hạn thì không thể thấy được. Đó là các DNVVN cần phải tuân thủ hơn chính sách thuế, và chính phủ cần quan tâm nhiều hơn đến khu vực này trong một chiến lược dài hơi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Vui Lòng Lịch Sự & Chừng Mực, Cảm Ơn Bạn !