Với việc tổng thống Mỹ Joe Biden kích hoạt lại những ưu tiên cho vấn đề biến đổi khí hậu, bàn cờ kinh tế và địa chính trị giữa các nước lớn trong những năm tới đây sẽ có nhiều thay đổi mang tính chất nền tảng. Khi Mỹ và châu Âu cùng hòa nhịp trong dàn hợp xướng “biến đổi khí hậu” thì Nga, Trung Quốc, các nước Trung Đông cũng sẽ có những toan tính mới của mình. Các nền kinh tế nhỏ, mới nổi như Việt Nam sẽ phải chuẩn bị như thế nào?
Qua các nghiên cứu của mình, giới khoa học đã cảnh báo vấn đề biến đổi khí hậu là rất nghiêm trọng với nhân loại, và phải nhanh chóng thực hiện “chuyển đổi xanh”. Các nhà kinh tế thì đưa ra các viễn cảnh khác nhau, về kinh tế thế giới và các nước bị ảnh hưởng như thế nào trong các kịch bản của mình: mức độ thiệt hại ít hay nhiều tùy thuộc vào các hành động. Và cuối cùng, công nghệ đã có nhiều phát triển nhanh chóng, về các giải pháp kỹ thuật để chuyển đổi xanh là hoàn toàn khả thi.
Và vấn đề cốt lõi của biến đổi khí hậu, ảnh hưởng đến bàn cờ kinh tế và địa chính trị của các nước lớn đó là năng lượng: chuyển đổi từ việc sử dụng năng lượng hóa thạch sang các dạng năng lượng tái tạo.
Câu chuyện thứ nhất là giữa Nga và EU. Đã từ lâu, nguồn năng lượng của nhiều nước EU phụ thuộc vào Nga và nhiều người chắc vẫn chưa quên việc Nga ngưng cung cấp gas cho một số nước Đông-Nam Âu vào mùa đông năm 2006 và 2009. Năng lượng luôn là lá bài tẩy hữu hiệu của Nga trong việc đàm phán với EU về nhiều vấn đề khác. Chính vì vậy, việc EU tập trung ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo, giảm phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch, trong đó chủ yếu là từ Nga là vì lý do đó. Nếu nhu cầu của EU và các nền kinh tế khác về năng lượng hóa thạch giảm, đây là một thách thức rất lớn với Nga, vì nền kinh tế Nga hiện nay đang phụ thuộc rất nhiều vào nguồn thu này.
Câu chuyện thứ thứ hai là ở Trung Quốc. Là một nước nhập khẩu năng lượng hóa thạch nhiều, đồng thời chiếm hơn ¼ lượng khí thải toàn cầu, nên việc thực hiện chuyển đổi xanh của các nước còn lại là một thách thức lớn đối với Trung Quốc. Sự phát triển thần kỳ của Trung Quốc mấy chục năm vừa qua có một phần đóng góp lớn là chi phí môi trường thấp. Nếu thực hiện chuyển đổi xanh trong một thời gian ngắn thì chi phí vô cùng tốn kém, ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng. Chính vì vậy mà Trung Quốc đề nghị cân bằng khí thải vào năm 2060, đạt đỉnh vào năm 2030, trong khi đó EU thì lại muốn sớm hơn là vào năm 2025.
Câu chuyện thứ ba và quan trọng nhất chính là Mỹ và đồng minh thân cận của mình ở Trung Đông là Ả-rập Xê-út. Mỹ cũng là nước có nguyền tài nguyên năng lượng hóa thạch lớn, nên việc chuyển đổi sang năng lượng tái tạo không phải là lựa chọn sống còn của Mỹ. Ở một vị thế hoàn toàn chủ động về năng lượng, từ tài nguyên, nguồn lực tài chính, và công nghệ, Mỹ lệch về bên nào là cán cân hoàn toàn lệch về bên đó. Có lẽ cái khó của Mỹ trong việc chuyển đổi năng lượng này là mối quan hệ với Ả-rập Xê-út, sợ rằng nếu nhu cầu dầu mỏ giảm, khó khăn sẽ đến với đất nước này, dẫn đến sự ổn định của cả khu vực Trung Đông.
Nếu coi Nga, Trung Quốc là một trục và trục còn lại là EU thì Mỹ là yếu tố quyết định trong ván cờ năng lượng và chuyển đổi xanh này. Thật vậy, khi tổng thống Donal Trump trút Mỹ ra khỏi cam kết COP21 Paris, các chuyển động của kinh tế xanh, năng lượng tái tạo đều bị chậm lại. Chỉ khi tổng thống Joe Binde chính thức đắc cử, các vấn đề này được hâm nóng, và tăng tốc khi ông Biden tổ chức Hội nghị thượng đỉnh trực tuyến trong 2 ngày, và ký một số sắc lệnh quan trọng về kinh tế, ủng hộ kinh tế xanh.
Khi năng lượng tái tạo được thúc đẩy, giảm dần sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch thì ảnh hưởng địa chính trị của các nước lên những tuyến đường vận tải quan trọng cũng thay đổi một cách toàn diện. Hai ví dụ quan trọng nhất là tuyến vận chuyển qua eo biển Hormuz và eo biển Malacca. Ảnh hưởng của các nước lớn trên thế giới một cách trực tiếp hay gián tiếp sẽ qua quyền kiểm soát 2 eo biển này. Cho nên nếu tầm quan trọng của 2 eo biển này giảm đi thì chiến lược và sách lược của các nước lớn cũng thay đổi theo.
Các nước nhỏ làm gì để thích ứng ?
Đừng bơi ngược những con sóng lớn là một nguyên tắc bất di bất dịch, càng đúng trong các vấn đề ngoại giao, kinh tế, và địa chính trị. Việt Nam cũng như nhiều nền kinh tế mới nổi khác dĩ nhiên đã thấy được những nước đi quan trọng của Mỹ gần đây. Như vậy Mỹ sẽ “cùng chèo” với EU trong vấn đề biến đổi khí hậu, năng lượng tái tạo và do đó sẽ thay đổi rất nhiều các lĩnh vực kinh tế liên quan đến năng lượng, khí thải.
Trung Quốc cũng đã thấy được vấn đề và có những nhượng bộ nhất định, nhưng cũng giữ lại một số miếng đàm phán quan trọng. Trong đó, có thể kể đến là nguồn cung tấm năng lượng mặt trời, pin, và một số nguyên liệu thô hiếm cần thiết cho một số lĩnh vực năng lượng tái tạo, năng lượng sạch. Nhưng đây cũng không thể xem là con bài tẩy quan trọng, bởi vì điều này không giống như khủng hoảng năng lượng những năm 1970s. Khi nguồn cung xăng dầu bị gián đoạn đột ngột, kinh tế rơi vào khủng hoảng lập tức. Còn bây giờ, nếu Trung Quốc cắt đột ngột nguồn cung thì không thể ảnh hưởng thế giới được như vậy. Chưa kể, kinh tế Trung Quốc cần duy trì hoạt động liên tục, nếu gián đoạn từ trong nước sẽ tạo bất ổn lớn.
Vấn đề của các nước nhỏ như Việt Nam là sự lựa chọn và thích ứng. Trong việc chuyển đổi xanh, chuyển đổi sang năng lượng tái tạo thì sẽ có 3 xu hướng: tiếp nhận công nghệ cũ từ các nước phát triển với phần bù rủi ro (risk premium) cao trong giai đoạn đầu, hoặc đầu tư để tham gia vào chuỗi giá trị mới, hoặc kết hợp cả hai.
Trên cơ sở đó, sẽ có chiến lược thu hút nhà đầu tư nước ngoài có chất lượng phù hợp với định hướng của mình. Cụ thể như Việt Nam đang thu hút nhiều nhà đầu tư Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan. Nhưng trong số này, cần ưu tiên cho những doanh nghiệp xuất hàng đi EU hay Mỹ, vì những doanh nghiệp này họ đã biết cần làm gì để vào EU, Mỹ trong những năm sắp tới. Còn trong việc thu hút các nhà đầu tư EU hay Mỹ, thì các chuẩn bị để tương thích với kinh tế xanh, năng lượng tái tạo là hết sức cần thiết. Ưu tiên các dự án này cũng là một cách chính phủ gửi thông điệp ủng hộ của mình với EU và Mỹ.
Tuy nhiên với nguồn lực hạn chế, Việt Nam có lẽ nên lựa chọn phương án “quá độ”, nghĩa là vừa đầu tư để tham gia chuỗi giá trị mới do EU và Mỹ dẫn dắt, vừa giảm thiểu tác động tiêu cực của các dự án thế hệ cũ nhưng mang lại lợi ích kinh tế trong ngắn hạn.
Và vấn đề cốt lõi của biến đổi khí hậu, ảnh hưởng đến bàn cờ kinh tế và địa chính trị của các nước lớn đó là năng lượng: chuyển đổi từ việc sử dụng năng lượng hóa thạch sang các dạng năng lượng tái tạo.
Câu chuyện thứ nhất là giữa Nga và EU. Đã từ lâu, nguồn năng lượng của nhiều nước EU phụ thuộc vào Nga và nhiều người chắc vẫn chưa quên việc Nga ngưng cung cấp gas cho một số nước Đông-Nam Âu vào mùa đông năm 2006 và 2009. Năng lượng luôn là lá bài tẩy hữu hiệu của Nga trong việc đàm phán với EU về nhiều vấn đề khác. Chính vì vậy, việc EU tập trung ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo, giảm phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch, trong đó chủ yếu là từ Nga là vì lý do đó. Nếu nhu cầu của EU và các nền kinh tế khác về năng lượng hóa thạch giảm, đây là một thách thức rất lớn với Nga, vì nền kinh tế Nga hiện nay đang phụ thuộc rất nhiều vào nguồn thu này.
Câu chuyện thứ thứ hai là ở Trung Quốc. Là một nước nhập khẩu năng lượng hóa thạch nhiều, đồng thời chiếm hơn ¼ lượng khí thải toàn cầu, nên việc thực hiện chuyển đổi xanh của các nước còn lại là một thách thức lớn đối với Trung Quốc. Sự phát triển thần kỳ của Trung Quốc mấy chục năm vừa qua có một phần đóng góp lớn là chi phí môi trường thấp. Nếu thực hiện chuyển đổi xanh trong một thời gian ngắn thì chi phí vô cùng tốn kém, ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng. Chính vì vậy mà Trung Quốc đề nghị cân bằng khí thải vào năm 2060, đạt đỉnh vào năm 2030, trong khi đó EU thì lại muốn sớm hơn là vào năm 2025.
Câu chuyện thứ ba và quan trọng nhất chính là Mỹ và đồng minh thân cận của mình ở Trung Đông là Ả-rập Xê-út. Mỹ cũng là nước có nguyền tài nguyên năng lượng hóa thạch lớn, nên việc chuyển đổi sang năng lượng tái tạo không phải là lựa chọn sống còn của Mỹ. Ở một vị thế hoàn toàn chủ động về năng lượng, từ tài nguyên, nguồn lực tài chính, và công nghệ, Mỹ lệch về bên nào là cán cân hoàn toàn lệch về bên đó. Có lẽ cái khó của Mỹ trong việc chuyển đổi năng lượng này là mối quan hệ với Ả-rập Xê-út, sợ rằng nếu nhu cầu dầu mỏ giảm, khó khăn sẽ đến với đất nước này, dẫn đến sự ổn định của cả khu vực Trung Đông.
Nếu coi Nga, Trung Quốc là một trục và trục còn lại là EU thì Mỹ là yếu tố quyết định trong ván cờ năng lượng và chuyển đổi xanh này. Thật vậy, khi tổng thống Donal Trump trút Mỹ ra khỏi cam kết COP21 Paris, các chuyển động của kinh tế xanh, năng lượng tái tạo đều bị chậm lại. Chỉ khi tổng thống Joe Binde chính thức đắc cử, các vấn đề này được hâm nóng, và tăng tốc khi ông Biden tổ chức Hội nghị thượng đỉnh trực tuyến trong 2 ngày, và ký một số sắc lệnh quan trọng về kinh tế, ủng hộ kinh tế xanh.
Khi năng lượng tái tạo được thúc đẩy, giảm dần sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch thì ảnh hưởng địa chính trị của các nước lên những tuyến đường vận tải quan trọng cũng thay đổi một cách toàn diện. Hai ví dụ quan trọng nhất là tuyến vận chuyển qua eo biển Hormuz và eo biển Malacca. Ảnh hưởng của các nước lớn trên thế giới một cách trực tiếp hay gián tiếp sẽ qua quyền kiểm soát 2 eo biển này. Cho nên nếu tầm quan trọng của 2 eo biển này giảm đi thì chiến lược và sách lược của các nước lớn cũng thay đổi theo.
Các nước nhỏ làm gì để thích ứng ?
Đừng bơi ngược những con sóng lớn là một nguyên tắc bất di bất dịch, càng đúng trong các vấn đề ngoại giao, kinh tế, và địa chính trị. Việt Nam cũng như nhiều nền kinh tế mới nổi khác dĩ nhiên đã thấy được những nước đi quan trọng của Mỹ gần đây. Như vậy Mỹ sẽ “cùng chèo” với EU trong vấn đề biến đổi khí hậu, năng lượng tái tạo và do đó sẽ thay đổi rất nhiều các lĩnh vực kinh tế liên quan đến năng lượng, khí thải.
Trung Quốc cũng đã thấy được vấn đề và có những nhượng bộ nhất định, nhưng cũng giữ lại một số miếng đàm phán quan trọng. Trong đó, có thể kể đến là nguồn cung tấm năng lượng mặt trời, pin, và một số nguyên liệu thô hiếm cần thiết cho một số lĩnh vực năng lượng tái tạo, năng lượng sạch. Nhưng đây cũng không thể xem là con bài tẩy quan trọng, bởi vì điều này không giống như khủng hoảng năng lượng những năm 1970s. Khi nguồn cung xăng dầu bị gián đoạn đột ngột, kinh tế rơi vào khủng hoảng lập tức. Còn bây giờ, nếu Trung Quốc cắt đột ngột nguồn cung thì không thể ảnh hưởng thế giới được như vậy. Chưa kể, kinh tế Trung Quốc cần duy trì hoạt động liên tục, nếu gián đoạn từ trong nước sẽ tạo bất ổn lớn.
Vấn đề của các nước nhỏ như Việt Nam là sự lựa chọn và thích ứng. Trong việc chuyển đổi xanh, chuyển đổi sang năng lượng tái tạo thì sẽ có 3 xu hướng: tiếp nhận công nghệ cũ từ các nước phát triển với phần bù rủi ro (risk premium) cao trong giai đoạn đầu, hoặc đầu tư để tham gia vào chuỗi giá trị mới, hoặc kết hợp cả hai.
Trên cơ sở đó, sẽ có chiến lược thu hút nhà đầu tư nước ngoài có chất lượng phù hợp với định hướng của mình. Cụ thể như Việt Nam đang thu hút nhiều nhà đầu tư Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan. Nhưng trong số này, cần ưu tiên cho những doanh nghiệp xuất hàng đi EU hay Mỹ, vì những doanh nghiệp này họ đã biết cần làm gì để vào EU, Mỹ trong những năm sắp tới. Còn trong việc thu hút các nhà đầu tư EU hay Mỹ, thì các chuẩn bị để tương thích với kinh tế xanh, năng lượng tái tạo là hết sức cần thiết. Ưu tiên các dự án này cũng là một cách chính phủ gửi thông điệp ủng hộ của mình với EU và Mỹ.
Tuy nhiên với nguồn lực hạn chế, Việt Nam có lẽ nên lựa chọn phương án “quá độ”, nghĩa là vừa đầu tư để tham gia chuỗi giá trị mới do EU và Mỹ dẫn dắt, vừa giảm thiểu tác động tiêu cực của các dự án thế hệ cũ nhưng mang lại lợi ích kinh tế trong ngắn hạn.
E có đọc trên mạng. Chuyện phát tín chỉ co2 không những mang tính chât bảo vệ môi trường mà còn là âm mưu của các nước tư bản nhằm biến các nước công nghiêp phải làm không công cho họ. A nghĩ sao về việc này
Trả lờiXóađọc thì nên kiểm chứng thêm nguồn, các nguồn khác :). vấn đề trái đất nóng lên, biến đổi khí hậu là rõ. thị trường CO2 là đánh vào yếu tố kinh tế để điều chỉnh hành vi. Thải nhiều thì phải mua quota, sao làm không công gì ở đây ? các nước đặt nhà máy có thể dùng thuế để điều chỉnh mà.
Xóa